CHÓNG MẶT
Chóng mặt là một triệu chứng lâm sàng của tai khá phổ biến bà danh từ chóng mặt được nhân dân dùng một cách rộng rãi, không thống nhất. Do đó chúng ta cần phải định nghĩa thể nào là chóng mặt trước khi đề cập đến vấn đề các hội chứng mê nhĩ ( còn được gọi là hội chứng tiền đình).
Chóng mặt là một trạng thái bệnh lý , trong đó bệnh nhân có cảm giác rằng những vật chung quanh minh di chuyển vùt vụt qua trước mặt hoặc bản thân mình bị lôi kéo, di động theo một chiều hớng nào đó. Hớng di chuyển thường là quay tròn nhưng cũng co kho đa lên đa xuống hoặc đa qua đa lại. Bệnh nhân đứng hoặc ngồi không vững , lúc nào cũng chực ngã.
Kèm theo đó chúng ta có thể thấy động mắt tự phát và rối loạn giao cảm (tái mặt , toán mồ hôi, nôn ẹo, mạch nhanh...). Dĩ nhiên những cảm giác di chuyển nói trên là giả dối; Ngời bệnh và đồ đạc chung quanh đều ở yên tại chỗ , không hề có chuyển động.Cảm giác sai lầm này bắt nguồn từ sự rối chức năng của hệ thống thănh bằng do thương tổn ở mê nhĩ hoặt ở thần kinh trung ương.
Nh vậy chúng ta loại ra những hiện tượng bệnh lý mà nhân dân cũng quen gọi là chóng mặt nh:
- Hoa mắt nẩy đom đóm (ébloeissemen) do sự thay đổi áp lực của tuần hoàn não khi đứng lên hay ngồn xuống nhanh.
- Tối sầm mắt và quỵ chân do bầm huyết , mệt quá sức, đói bụng, thể trạng suy yếu.
Tùy theo mức độ, ngời ta xếp chóng mặt ra làm ba loại:
Cơn chóng mặt tiền đình gồm có ba triệu chứng chính : Chóng mặt, ù tai, điếc.
Bệnh bắt đầu một cách đột ngột: Đương sự đang khỏe mạnh, đột nhiên nghe tiếng ù ở bên tai. Liền sau đó, bệnh nhân thấy mất thăng bằng vẫng quật xuống đất. Ngời bệnh vẫn tỉnh, biết rằng mình ngã nhưng không làm sao ngồi dậy được. Mỗi lần cử động thì chóng mặt tăng lên, nhìn thấy đồ vật chung quanh lảo đảo, quay cuồng. Bệnh nhân nằm nghiêm về phía động mắt, mặt tái nhợt, tóa mồ hôi, nôn ẹo, ngời hồi hộp, mạch nhanh. Động mắt tự phát đập về bên tai lành nếu mê nhĩ bị hủy hoại ( trường hợp phổ biến). Nếu mê nhĩ còn tồn tại và chỉ bị kích thích đơn thuần , động mắt tự phát đập về bên bệnh. Bệnh nhân sợ tiếng động, sợ di chuyển không dám chuyển mình. Nếu nằm yên thì đỡ chóng mặt . Tai bên có tiếng ù bị điếc. Cơn chóng mặt kéo dài từ vào giờ đến vài ngày. Sau đó triệu chứng chóng mặt giảm dần, nhưng điếc và ù tai vấn kéo dài, có khi trở thành vĩnh viễn. Sau một thời gian ổ định, cơn chóng mặt có thể tái diễn trở lại . Giữa cơn chóng mặt , bệnh nhân có thể sinh họat gần nh bình thường.
Chóng mặt xuất hiện đột ngột, nhưng không nặng lắm. Bệnh nhân nhưng cha đến nỗi ngã lăn xuống đất nhưng phải ngồi bán vào cái bàn hoặc cây cột. Họ cảm giác rằng nhà cửa đồ đạc quay cuồng, đất dới chân trở thành bập bềnh. Những rối loạn giao cảm nhẹ hơn thể trên: bệnh nhân toát mồ hôi, buồn nôn, tim đập nhanh... không có động mắt tự phát . Triệu chứng điếc không rõ rệt trong cơn chóng mặt, ngoài cơn chóng mặt bệnh nhân nghe tương đối tốt. Triệu chứng ù tai ít khi vắng mặt. Cơn chóng mặt kéo dài trong vòng vài giờ hoặc vài ngày. Ngoài cơn chóng mặt , bệnh nhân đi đứng khá vừng vàng. Loại chóng mặt này thường hay gặp hơn thể trên.
Bệnh nhân chóng mặt thoảng qua trong năm ba phút, có cảm giác chòng chành nh đứng trên chiếc thuyền bị sóng nhồi, đồ đạc chúng quanh lắc l. tai không điếc ù. Loại chóng mặt này thường xuất hiện khi bệnh nhân để đầu nghiêm về một chiều hớng nào đó. Khi đặt đầu lại trong t thế bình thường thì hết chóng mặt. Bệnh nhân vẫn đi xe đạp được.
Chúng tôi không tả lại cách khám tiền đình vì phần này đã được nói rõ trong bài khám tiền đình. Sau đây chúng tôi chỉ nhắc lại những nét lớn:
a. Đối với bệnh nhân đang lên cơn chóng mặt chóng ta chỉ nên khám tối tiểu, tránh làm tăng cơn chóng mặt: ghi t thế nằm của bệnh nhân, tìm động mắt tự phát, tìm hớng lệnh ngón tay chỉ, làm mức độ điếc bằng tiếng nói, đếm mạch... Chúng ta khám trong t thế nằm, trách di chuyển bệnh nhân.
b. Ngoài cơn chóng mặt , bệnh nhân có thể đi lại được. Chúng ta sẽ khám đầy đủ chức năng tiền đình tìm những rối loạn tự phát ( chóng mặt, động mắt tự pháp, lệnh ngón tay chỉ, Romberg....) và những rối loạn do gây ra ( nghiệm pháp nước lạnh, nghiệm pháp ghế quay, nghiệm pháp điện một chiều) chúng ta khám cả chức năng nghe bằng âm thoa và thính lực kế.
Ngoài ra chúng ta khám các bộ phận khác nh mắt, tim mạch, bộmáy tiêu hóa, hệ thống thần kinh thực vật.
Trên lâm sàng, triệu chứng chóng mặt không xuất hiện riêng lẻ mà thường có kèm theo một số triệu chứng khác, tạo thành những hội chứng mê nhĩ hay hội chứng tiền đình mà chúng tôi sẽ nói ở bài sau.